“Ko,” Pippi nói, “làm gì có người nào tai to đến thế. Nếu vậy thì buồn cười chết. Trông sẽ ra làm sao? Người ta ko thể có đôi tai vĩ đại đến thế được. Ít nhất thì cũng ko thể có trên đất nước này.” Sau 1 quãng ngưng đầy suy nghĩ, nó tiếp. “Bên trung Quốc thì lại khác. 1 lần tớ trông thấy ở Thượng Hải có 1 người Trung Quốc. Tai ông ta to tới mức ông ta có thể dùng chúng làm dù che. Hễ trời đổ mưa, ông ta bèn núp dưới đôi tai và ko ở đâu có thể ấm áp và khô ráo hơn thế. Nếu thời tiết đặc biệt xấu, ông ta mời bạn bè, người quen đến trú dưới tai ông ta.Họ ngồi đó và hát những bài hát buồn rười rượi, trong khi ngoài trời vẫn mưa. Nhờ đôi tai mà ông ta được mọi người rất quý. Tên ông ta là Hải Thượng.Giá các cậu chỉ cần được thấy sáng sáng Hải Thượng chạy đi làm. Bao giờ cũng sát giờ làm việc ông ta mới tất tả chạy đến, vì ông ra khoái ngủ muộn lắm, và cách cậu ko thể tưởng tượng được cái cảnh cực kỳ ngộ nghĩnh khi ông ta chạy đến với đôi tai như 2 cánh buồm màu vàng to tướng, bay fần fật đằng sau.”
Cô bé đứng lại há hốc mồm nghe Pippi. CÒn Thomas và Annika ko thể ăn tiếp được nữa, chúng còn mải hóng chuyện.
“ông ta có nhiều con đến mức ông ta ko đếm xuể, đứa bé nhất tên là Peter,” Pippi nói.
“ừ, nhưng 1 đứa trẻ con Trung Quốc ko thể tên là Peter được.” Thomas fản đối.
“Thì vợ ông ta cũng bảo ông ta thế ! 1 đứa trẻ con Trung Quốc ko thể tên là Peter được, bà ta nói. Nhưng Hải Thượng ngoan cố kinh khủng, ông ta 1 mực hoặc đứa trẻ fải tên là Peter, hoặc ko tên gì cả. Nói rồi ông ta chui vào 1 góc, kéo tai bịt kín đầu, chẳng thèm trò chuyện với ai.Cố nhiên bà vợ tội nghiệp đành fải nghe theo, và thế là đứa trẻ được đặt cho cái tên Peter.”
“Ra thế” Annika bảo.
“Ra thế” Thomas cũng nói.
“đó là đứa trẻ khó bảo nhất khắp vùng Thượng Hải.” Pippi tiếp. “ Nó kén ăn đến nỗi bà mẹ fát khổ fát sở. Các cậu biết ở bên Trung Quốc người ta vẫn ăn tổ chim yến chứ gì? Vậy là các bà mẹ cứ ngồi với 1 đĩa đầy fè tổ chim yến và cố bón cho nó ăn. Nào, Peter bé bỏng, bà nựng, bây giờ chúng mình ăn 1 tổ chim yến vì bố nhé. Thế nhưng Peter vẫn mím môi lắc đầu quầy quậy. Cuối cùng Hải Thượng tức quá bèn tuyên bố rằng Petet sẽ ko được ăn bất kì món gì khác nếu như nó chưa chịu ăn 1 tổ chim yến vì bố nó. Mà Hải Thượng đã nói gì thì đố mà lay chuyển. Suốt từ tháng 5 đến tháng 10, cái tổ yến ấy cứ hết được bưng ra khỏi bếp lại bưng vào. Ngày 14 tháng 7, bà mẹ xin fép được cho Peter vài viên thịt, nhưng Hải Thượng bảo ko.”
“Ngu ngốc đến thế là cùng,” cô bé đứng ngoài fố nói.
“Ừ, Hải Thượng cũng nói thế,” Pippi tiếp, “ngu ngốc, ông ta bảo, rõ ràng là thằng bé có thể ăn tổ chim yến, chỉ cần nó bỏ cái thói ương bướng đi. Nhưng Peter vẫn ngậm chặt mồm suốt thời gian từ tháng 5 cho đến tháng 10.”
“Ừ, nhưng thế thì nó sống thế nào được?” Thomas ngạc nhiên hỏi.
“Nó ko sống được,” Pippi nói. “Nó chết. Chỉ vì ương ngạnh. Nó chết vào ngày 18 tháng 10. Ngày 19 thì chôn. Sang ngày 20, 1 con chim yến bay qua cửa sổ vào nhà, đẻ 1 quả trứng vào 1 cái tổ đặt trên bàn. Như vậy cái tổ dẫu sao vẫn có ích.Ko có điều gì đáng tiếc xảy ra.” Pippi fấn khởi nói. Đoạn nó đưa mắt ngờ vực nhìn cô bé đang đứng đó với vẻ vô cùng bối rối.