g từ mười bốn tuổi nên gã bị điếc đặc. Tâm hồn gã rơi vào đêm đen thăm thẳm. Điếc làm cho gã câm. Vì không muốn làm trò cười cho thiên hạ gã kiên quyết giữ im lặng. Gã chỉ phá vỡ sự im lặng khi chỉ có một mình. Gã trở nên độc ác. Độc ác vì hoang dã. Hoang dã vì xấu quá. Sức khỏe phát triển lạ lùng cũng là nguyên nhân nữa của tính độc ác của gã. Từ bước đầu đến với con người gã đã cảm thấy và thực sự thấy bị xua đuổi. Lớn lên, gã toàn chỉ thấy sự hằn học xung quanh gã. Rốt cuộc gã quay lưng lại mọi người dù không phải không nuối tiếc. Nhà thờ Đức Bà là đủ cho gã rồi. Sự có mặt của con người kỳ quặc này đem lại cho nhà thờ một cái gì như sức sống, chỉ cần biết là gã đang ở đây là người ta tưởng như hàng ngàn pho tượng ở các hành lang sống dậy, cử động được. Duy nhất chỉ có một người là Quasimodo không dành cho những trò tinh quái, sự hằn học của gã, có lẽ gã còn yêu hơn cả yêu nhà thờ Đức Bà. Đó là Claude Frollo. Điều đó thật đơn giản, Claude Frollo đã nhận gã làm con nuôi, đã nuôi nấng, dạy dỗ, che chở cho gã, đã làm cho gã thành người kéo chuông. Vì thế lòng biết ơn của Quasimodo rất sâu sắc, say mê vô hạn, dù bộ mặt của cha nuôi lúc nào cũng u uất, cứng đanh, khắc nghiệt. Lòng biết ơn ấy không hề suy giảm. Phó giám mục chỉ có Quasimodo là kẻ nô lệ phục tùng duy nhất. Từ khi Quasimodo bị điếc đã hình thành giữa ông và gã một thứ ngôn ngữ bằng dấu hiệu bí hiểm, chỉ có hai người hiểu được. Bằng cách ấy, phó giám mục là người duy nhất có quan hệ giao tiếp với Quasimodo. Trong đời này gã chỉ có quan hệ với hai thứ: nhà thờ Đức Bà và Claude Frollo. Năm 1482, Quasimodo đã chừng hai mươi tuổi. Claude Frollo thì khoảng ba mươi sáu. Một người thì lớn lên, một người thì già đi..Claude Frollo không sao nhãng việc giáo dục em mình. Với thời gian, một chút chua chát đã len vào cái công việc dịu dàng ấy. Chú bé Jehan Frollo, biệt danh là Cối xay gió, nơi chú được nuôi dạy, không phát triển theo hướng mà Claude muốn. ông anh trông mong em trở thành một đứa trẻ sùng đạo, dễ bảo, danh giá. Chú em thì lười biếng, dốt nát, trụy lạc, thực sự là một con quỷ rất lệch lạc. Nhiều phen làm cho Claude phải cau mày. Nhưng chú lại rất ngộ nghĩnh, rất tế nhị. Điều đó làm cho ông anh nở nụ cười. Chán nản trong tình yêu con người, ông càng hăm hở lao vào khoa học. Dần dần ông trở nên thông thái, đồng thời ngày càng cứng rắn trong tư cách là linh mục, ngày càng buồn với tư cách là con người. Ông say mê lạ lùng nhà thờ Đức Bà. ông ngắm hàng giờ những bức tượng nơi cửa. ông giam mình trong căn phòng hẹp, trong một cái tháp trông ra quảng trường Grève, kề bên phòng treo chuông. Không ai vào phòng ông. Đêm đêm qua một cửa sổ nhỏ người ta trông thấy ánh lửa đỏ quạch nhấp nháy. Trong bóng tối, từ tầm cao ấy, cái đó gây ra một tác động thật lạ. Bởi vậy, mặc dù sống kham khổ, ông không được cảm tình của dân chúng. Người ta không ngần ngại lên án ông là phù thủy. Từ ít lâu nay, người ta thấy ông càng kinh tởm bọn ma-cà-bông. ông đã xin giám mục ban bố một chỉ dụ cấm những cô gái bô-hê-miêng không được vào nhảy trong quảng trường nhà thờ. Phó giám mục và gã kéo chuông đều không được trẻ con và người lớn quanh nhà thờ yêu mến. Mỗi khi Claude và Quasimodo cùng nhau đi ra ngoài (điều này đã nhiều lần xảy ra), khi người ta thấy thầy trò sóng bước bên nhau, trò đi sau thầy trên những đường phố hẹp, mát và tối om của tòa nhà thờ Đức Bà thì không ít lời phỉ báng, giễu cợt, lăng mạ khi họ đi ngang. Bất chấp mạng sống của mình, bọn trẻ con tinh quái cắm kim vào cái bướu của Quasimodo để cười thả cửa. Đôi khi có những bà già, ngồi trong bóng râm của cổng nhà thờ, lầu bầu thành tiếng, lời chào đón mang tính chất "khích lệ": "Đây là một con.người mang tâm hồn y như hình thù mà nó mang", hoặc một đám học trò chào họ bằng những lời hò hét. Nhưng thường thường thì lời lăng mạ bị linh mục và gã kéo chuông bỏ qua. Quasimodo thì điếc lòi, còn Claude thì quá mơ màng không để lọt tai những lời êm ái đó.