tôi dùng búa đẽo bên ngoài vỏ cho ra dáng một chiếc tàu nhỏ.
Nhưng nào đã xong được đâu! Chúng tôi còn phải bỏ ra nửa tháng trời nữa để đưa nó xuống nước bằng cách lót mấy khúc gỗ tròn bên dưới mà đẩy dần cho nó tuột đi từng tí một. Tôi rất đỗi ngạc nhiên thấy Thứ sáu điều khiển chiếc xuồng, lái đi, quay lại rất lành nghề, mặc dù xuồng rất lớn. Trong khi anh sửa nốt chiếc xuồng và tập dượt điều khiển thì tôi nhận trách nhiệm làm một cánh buồm.
Tôi nhớ còn có khá nhiều những miếng vải cũ, nhưng bỏ lăn bỏ lóc trong suốt hai mươi sáu năm trời có lẽ cũng đã mục nát cả rồi.
May sao tôi vẫn chọn được hai miếng còn khá bền. Sau bao phen tê tay mỏi mắt vì phải may vá nhiều mà lại không có kim, tôi cũng khâu xong một lá buồm tam giác tạm coi được. Đó là loại buồm tôi quen điều khiển hơn hết. Tôi lại mất luôn hai tháng trời nữa mới dựng xong cột buồm và treo buồm lên, đồng thời cũng xem xét, sửa chữa và làm nốt những thứ vặt vãnh khác trên xuồng. Tôi thêm vào cho cánh buồm lớn một lưới dây nhỏ và một lá buồm phụ phía trước để giữ cho xuồng đi vững, phòng khi bị nước triều cuốn đi mạnh quá. Cuối cùng, tôi lắp một bánh lái vào sau xuồng. Tôi vẫn chỉ là một anh thợ mộc khá tồi, nhưng vì được biết quá rõ ích lợi và sự cần thiết của bánh lái cho nên tôi hết sức để tâm vào việc đó và cuối cùng đã hoàn thành. Chỉ riêng cái bánh lái này cũng bắt tôi hao công tốn sức bằng làm tất cả chiếc xuồng và mọi thứ phụ
tùng khác. Thế là tôi bắt đầu bước vào năm thứ hai mươi bảy của cuộc đời đày ải trên hòn đảo hoang vu này, mặc dầu đúng ra thì không thể gọi ba năm gần đây là đày ải được. Suốt ba năm ấy, tôi rất vui sướng vì có người giúp việc trung thành bên cạnh. Hàng năm tôi vẫn kỷ niệm ngày tôi đặt chân lên đảo với tất cả những nghi thức như trước kia đã kể lại với các bạn đọc. Năm nay lại còn quan trọng hơn những năm trước vì nó đem lại cho tôi thêm niềm há vọng mới là sẽ thoát khỏi hòn đảo này. Tôi tin chắc rằng chỉ nội trong năm nay há vọng ấy sẽ trở thành sự thật. Tuy nhiên tôi vẫn không một phút sao lãng công việc thường ngày. Tôi vẫn cày đất như mọi năm, trồng trọt, phơi nho, làm thêm hàng rào. Nói tóm lại, chúng tôi cứ cặm cụi và vui vẻ làm việc như là suốt đời sẽ ở trên đảo.
Mùa mưa đã tới. Chúng tôi lại phải ở lỳ trong nhà nhiều hơn những mùa khác. Chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ để giữ gìn cho chiếc xuồng mới được yên ổn. Chúng tôi ròng nó vào trong cái vịnh nhỏ và, nhân lúc thủy triều lên cao , kéo nó ra bãi cát. Thứ sáu đã đào cho nó một cái bể chứa nhỏ vừa đủ sâu để khi cần thì có thể http://ebooks.vdcmedia.com
dẫn nước vào cho xuồng nổi lên. Và khi thủy triều lên, chúng tôi tìm cách ngăn hẳn không cho nước biển lọt được vào trong cái bể ấy nữa. Chúng tôi ghép rất nhiều cành cây lại với nhau thành nhiều lớp, kín đáo và chắc chắn hơn cả mái rạ để che cho xuồng khỏi bị dãi nắng dầm mưa. Như vậy, chúng tôi có thể yên tâm chờ đến tháng mười một hay tháng chạp, tiết trời thuận lợi để vượt biển. Mùa khô ráo bắt đầu trở lại, há vọng vượt biển của chúng tôi lại càng gần ngày thực hiện. Ngày đêm chúng tôi bận tíu tít, nhất là phải lo lắng thu thập lương thực cần thiết cho cuộc đi phiêu lưu, dự định trong vòng nửa tháng nữa. Một buổi sáng, trong khi đang lo thu dọn, tôi bảo Thứ sáu chạy ra ngoài bờ biển tìm vài con rùa về làm thịt ăn. Cũng như tôi, Thứ sáu rất thích ăn món này, ăn trứng hoặc ăn thịt. Dạo này, con chó của tôi đã chết vì già quá rồi, nên Thứ sáu thiếu một tay giúp việc săn rùa đắc lực. Tuy thế, thường anh vẫn tỏ ra "may mắn" hơn tôi. Nhưng vừa ra khỏi nhà được độ dăm phút, anh đã ba chân bốn cẳng chạy trở về, nhảy vút qua bức lđá như bay mà vào, chân không kịp bén đất. Không chờ tôi hỏi, anh kêu lên ngay: