m được kéo lên bay vật vờ rồi lại rũ ngay xuống.Vua Piotr không rời Kacxten Bran một bước. Ông cụ ốm từ tháng hai: bệnh ho đờm như xé phổi ông cụ. Tuy nhiên, tùm hum trong chiếc áo lông cừu ngắn, ông cụ có mặt suốt ngày trên công trường. Ông ta nổi giận, hét, và dôi khi đánh đập những kẻ tỏ ra lười biếng hoặc ngớ ngấn. Do một đạo dụ đặc biệt, người ta đã đưa tới công trường một trăm năm mươi nông dân thuộc các tu viện: thợ mộc, thợ xẻ, thợ rèn, thợ đấu và phụ nữ khâu buồm khéo. Khoảng năm mươi tên lính, lấy ở các trung đoàn cận vệ trẻ, đến đây học nghề hàng hải: thả dây và buột dây, leo lên các cột buồm, làm theo lệnh chỉ huy. Thầy dạy họ là Pambur, một người ngoại quốc, quê ở Bồ Đào Nha, mũi khoằm, ria mép đen và cứng như bàn chải, xấu thói, thật là một con quỷ dữ, một tên kẻ cướp. Người Nga đồn rằng hắn đã nhiều lần bị treo cổ vì phạm tội, nhưng được ác quỷ cứu thoát: Pambur sống sót, đã đến nước Nga.Vua Piotr điên người vì sốt ruột. Tờ mờ sáng, tiếng trống và đôi khi cả gậy gộc đánh thức thợ thuyền dậy.Đêm mùa xuân ngắn ngủi, ai nấy mệt rũ người. Nikita Zotov viết liên miên những sắc chỉ của Sa hoàng gửi cho lãnh chúa các vùng lân cận, ra lệnh cho họ cung cấp lương thực cho các công trường: lúa mì, gà, vịt, thịt. Bọn lãnh chúa rất kinh sợ, vâng lời. Kiếm ra tiền khó khăn hơn.Sofia rất hài lòng thấy em trai mình lại đi xa Moskva hơn nữa, "A, giá mà nó chìm nghỉm cả người lẫn thuyền!" - nhưng tại Bộ Nội điện thì chẳng còn một tí gì: cuộc chiến tranh ở Krym đã ngốn hết tất cả.Mỗi khi Franx Lơfo có thể rũ được công việc của mình và phóng ngựa tới công trường hồ Pereiaslavskoe, thì các cuộc vui lại bắt đầu. Hắn mang rượu, xúc xích, bánh kẹo và lời chào của Ansen Monx đến, kèm theo là một cái nháy mắt. Nàng đã bình phục và lại còn đẹp thêm ra và yêu cầu Herr Pete ra ơn nhận cho món quà hai quả chanh.Trong căn nhà gỗ mới, bữa trưa cũng như bữa tối, người ta nâng hết cốc nầy đến cốc khác chúc mừng sự oai hùng của hạm đội Pereiaslav. Người ta đã nghĩ ra một lá cờ cho hạm đội nầy, làm bằng ba khổ vải: trắng, lam và đỏ. Đám người ngoại quốc kể lại những chuyện vượt biển xưa kia, những cơn phong ba và những trận thuỷ chiến. Pambur, hai chân xoạc ra, bộ ria mép ngọ nguậy, hét lên bằng tiếng Bồ Đào Nha, như thể thực sự hắn đang ở trên một chiếc tảu của bọn cướp biển.Vua Piotr giương mắt, dỏng tai, say mê nghe tất cả những chuyện đó. Con người sinh trưởng ở đất liền ấy, do đâu mà lại say mê biển cả đến như vậy? Đêm đến, ngủ trên một cái gác để đồ, bên cạnh Alexaska, nhà vua mơ thấy sóng vỗ, những đám mây trên mặt biển phẳng lặng như cánh dồng bằng mênh mông, bóng những con tàu đang chạy hết tốc lực.Không một sức mạnh nào có thể làm nhà vua trở về Preobrazenskoe được. Khi các bức thư thúc giục quá vua Piotr trả lời:"Kính gửi người mẹ thân yêu mà con còn quý hơn cuộc đời của thể xác con, kính gửi người mẹ dịu hiền của con, hoàng thái hậu Natalia Kirilovna, đứa con bất hiếu của mẹ là Petruska, quá bận bịu với công việc, xin mẹ ban phước lành và mong được tin về sức khỏe của mẹ. Về lệnh mà mẹ đã hạ cố ban cho con để về trình diện ở Preobrazenskoe, con không mong muốn gì hơn, nhưng con đang có rất nhiều việc phải làm: tàu đã gần xong cả rồi, chỉ còn thiếu có dây buồm nữa thôi.Con cúi xin mẹ ra ơn sai người gửi ngay cho con những dây ấy lấy tại Bộ Pháo binh. Con còn phải ở lại đây một thời gian nữa. Viết đến đây, con cúi xin mẹ ban phước lành cho con. Đứa con bất hiếu của mẹ: Petrusa".