Tôi nghĩ đến những lời qua tiếng lại gay gắt kịch liệt trên tàu bay. Kéo theo là nỗi chua xót. Nhưng tôi chỉ thốt lên rằng, “Cháu không tin nổi là bác lại không cứu Peeta.”
“Ta biết,” ông đáp.
Có cảm giác về sự thiếu trọn vẹn. Không phải vì ông chưa xin lỗi. Mà bởi chúng tôi đã từng là một đội. Chúng tôi đã thỏa thuận là sẽ giữ an toàn cho Peeta. Một thỏa thuận phi thực, đẫm hơi men được đưa ra trong đêm tối, nhưng vẫn cứ là thỏa thuận. Và tự đáy lòng mình, tôi biết cả hai chúng tôi đều đã thất bại.
“Giờ bác nói đi,” tôi bảo ông.
“Ta không tin nổi đêm ấy cháu lại để lạc mất Peeta khỏi tầm mắt,” Haymitch nói.
Tôi gật đầu. Vậy đấy. “Cháu cứ lấn cấn mãi về việc đó. Xem lẽ ra cháu đã có thể làm gì để giữ cậu ấy bên mình mà không phá vỡ liên minh. Nhưng cháu chẳng nghĩ ra gì cả.”
“Cháu đâu có được lựa chọn. Mà kể cả đêm ấy ta có bắt Plutarch ở lại giải cứu thằng bé thì cả cái tàu bay cũng sẽ bị bắn hạ mất. Chúng ta chỉ vừa kịp rời khỏi đó thôi.”
Cuối cùng tôi cũng nhìn vào mắt Haymitch. Đôi mắt màu vỉa than. Xám thăm thẳm, hằn những quầng thâm sau bao đêm mất ngủ. “Dù sao thì thằng bé vẫn chưa chết, Katniss à.”
“Chúng cháu vẫn trong cuộc đấu.” Tôi cố nói vẻ lạc quan, nhưng giọng rời rạc.
“Vẫn. Và ta vẫn là người hướng của cháu.” Haymitch chỉ cây bút dạ vào tôi. “Khi cháu ở trên mặt đất, hãy nhớ rằng ta ở trên máy bay. Ta sẽ có tầm nhìn tốt hơn, vì thế cứ làm theo lời ta.”
“Để xem đã,” tôi đáp.
Tôi quay lại Phòng Tái tạo, nhìn những vệt trang điểm chảy mất hút xuống lỗ thoát nước khi tôi rửa sạch mặt. Người trong gương trông xơ xác, với làn da sần sùi và cặp mắt lờ đờ, nhưng trông giống tôi. Tôi giật dải băng tay ra, để lộ vết sẹo xấu xí từ vụ máy định vị. Đây. Thế này cũng giống tôi nữa.
Vì tôi sẽ dấn thân vào vùng chiến sự nên Beetee giúp tôi chế tạo bộ áo giáp mà Cinna thiết kế. Chiếc mũ giáp dệt từ kim loại vừa khít đầu tôi. Chất liệu khá mềm, tựa vải, có thể bẻ ngược ra sau như mũ thường phòng khi tôi không muốn đội suốt. Áo gi lê nhằm tăng cường bảo vệ những bộ phận quan trọng. Một tai nghe nhỏ màu trắng gắn bằng dây kim loại cổ áo. Beetee còn cẩn thận lắp mặt nạ vào thắt lưng của tôi, phòng trường hợp bị tấn công bằng khí độc. “Nếu cháu thấy ai đó vô cớ ngã xuống thì hãy lập tức đeo cái này vào,” ông nói. Cuối cùng ông đeo ống tên chia thành ba ngăn hình trụ sau lưng tôi. “Nhớ này: Phải, lửa. Trái, thuốc nổ. Giữa, thường. Đáng ra cháu không cần đến chúng, nhưng cẩn tắc vô ưu mà.”
Boggs đến hộ tống tôi xuống Sư đoàn Không vận. Thang máy vừa tới nơi, đã thấy Finnick ló ra, vẻ bừng bừng khích động. “Katniss à, họ không cho anh đi! Anh đã bảo họ là anh ổn cả, nhưng họ thậm chí còn không cho anh lên tàu bay!”
Tôi nhìn Finnick - cẳng chân trần lộ ra giữa áo choàng bệnh viện và đôi dép lê, mái tóc rối bù, sợi dây thừng thắt dở dang quấn quanh ngón tay, ánh mắt hoảng hốt - biết rằng mình có viện cớ gì cũng vô ích. Dẫu tôi không cho rằng đưa anh theo là khôn ngoan. Thế là tôi vỗ tay vào trán nói, “Ôi, em quên mất. Tại cái chấn thương não ngu ngốc này đấy. Lẽ ra em phải bảo anh đến gặp bác Beetee ở Kho Vũ khí Đặc biệt. Bác ấy thiết kế một cây đinh ba mới cho anh đấy.”