ược ai biết đến của nghệ thuật kịch trường, tôi chỉ là một tay nhà báo chết đói, tay cộng tác viên của những tạp chí rẻ tiền và những nhật báo hạng hai, hoặc tệ hơn nữa, là một nhân viên gầy giơ xương của một hãng tư hay một cơ quan nhà nước . Gã đàn ông ấy giấu vợ những lo âu của hắn vì không muốn làm nàng phiền muộn, hắn chạy rông đầu đường, cuối phô tìm kiếm việc làm nhưng thường chỉ hoài công, hắn thường nửa đêm giật mình thức giấc vì chợt nhớ đến những món nợ phải trả. Thật tình, hắn chẳng nghĩ đến hoặc thấy cái gì khác ngoài tiền. Ấy là một hình ảnh đầy xúc động, nhưng thiếu phần vẻ vang và tư cách, hình ảnh của một nhân vật đau khổ ước lệ của văn học, mà tôi căm ghét, vì sợ rằng, một cách chậm rãi và vô tình, cùng với năm tháng trôi qau, cuối cùng tôi sẽ không tránh khỏi giống hệt nhân vật ấy, dù tôi không mong muốn tí nào. Nhưng vấn đề là thế này: tôi đã không lấy một người phụ nữ có thể hiểu và chia sẻ những tư tưởng, sở thích, cũng như những tham vọng của tôi, ngược lại, vì say mê sắc đẹp của nàng, tôi đã lấy một cô đánh máy ít học, mà tâm trí, theo tôi, đầy những thành kiến và tham vọng của tầng lớp xuất thân. Với người vợ thứ nhất, tôi có thể đương đầu với những nỗi long đong của một cuộc đời nghèo túng, trong một căn phòng cho thuê, trong hy vọng có ngày gặt hái được những thành công tất yếu trong nghệ thuật kịch trường, nhưng với người vợ thứ hai, tôi phải cung cấp cho nàng ngôi nhà mơ ước của nàng. Và để trả giá, tôi nghĩ một cách tuyệt vọng đến việc phải từ bỏ, có lẽ vĩnh viễn, những tham vọng văn chương quý giá của mình. Một nhân tố khác vào lúc đó cũng đã góp phâ`nó làm tăng thêm cảm giác về nỗi thống khổ và sự bất lực của tôi trước những khó khăn của cuộc sống vật chất. Như một thanh sắt bị nung mãi trên lửa, cuối cùng, tôi tự cảm thấy mềm đi, oằn xuống, chất liệu tinh thần của tôi bị nung chảy, oằn xuống dưới sức nặng của những phiền muộn đang đè nặng lên. Tôi không thể nào tránh được cái cảm giác ghen tị với những kẻ không phải gánh chịu những phiền muộn như vậy, những kẻ giàu có và những kẻ được hưởng nhiều đặc ân. Lòng ganh tị này, như tôi nhận thấy, luôn đi kèm với một cảm giác chua chát không hẳn nhắm vào một cá nhân hay một trường hợp cụ thể nào nhưng, trái lại, bao quát hết, như một quan niệm sống. Thật ra, trong những ngày tháng khó khăn ấy, tôi dần dà cảm thấy rằng nỗi tức giận và sự chịu đựng cảnh nghèo hèn của tôi đã biến thành ý thức phản kháng chống lại sự bất công, không phải sự bất công giáng xuống riêng thân phận tôi, nhưng là sự bất công mà những kẻ như tôi phải gánh chịu. Tôi hoàn toàn ý thức được sự biến đổi thần lặng của lòng căm hờn chủ quan của tôi thành những tư tưởng và tâm trạng khách quan, thôi thúc trong nội tâm của tôi, chi phối mọi giao tiếp xã hội của tôi. Tôi cũng nhận thấy trong tôi dần phát sinh mối thiên cảm đối với những đảng phái chính trị tuyên bố chống lại cái xấu xa ô nhục trong xã hội mà tôi xem như phải chịu trách nhiệm về những phiền muộn đang vây bủa tôi, một xã hội – cứ xét theo trường hợp riêng của tôi thì rõ – vốn luôn cứ để mặc cho nh