Rồi ông cúi xuống, mở chiếc hộp ra. Cha Nil đã tìm được hầu hết các dấu vết mà bức thư của tông đồ thứ mười ba để lại trong Lịch sử, nhưng dấu vết này thì hẳn ông ta đã để tuột mất. Ông lùi lại một bước.
- Các anh em, xin mời thực hiện nghi lễ.
Các tông đồ đứng dậy, rồi từng người một tiến đến gần để hôn lên chiếc nhẫn của hội trưởng, sau đó là vật đựng trong hộp.
Khi đến lượt mình, Antonio đứng bất động một lát trên bàn: được đặt sơ sài trên chiếc gối con bằng nhung đỏ, một khối vàng tự nhiên ánh lên nhè nhẹ. Nó rất nhẵn và mang hình một giọt nước mắt.
“Thứ còn lại từ kho báu của các Hiệp sĩ dòng Đền!”
Anh nghiêng mình, lồng mặt mình vào trong hộp và đặt môi lên giọt lệ vàng. Anh cảm giác nó vẫn còn cháy bỏng, và một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra sau đôi mắt đang nhắm lại của anh.
63.
Cha Breczinsky đón họ với một nụ cười nhợt nhạt, rồi dẫn họ đến bàn làm việc mà không nói lời nào. Sau khi gật đầu ra hiệu, ông vào văn phòng mình và để cửa mở hé.
Chìm đắm trong phát hiện mới của mình, cha Nil không để ý đến thái độ dè dặt của ông. “S.C.V., một mã số của Vatican. Đây là một trong những thư viện lớn nhất thế giới! Tìm một cuốn sách trong đó: quả nhiệm vụ bất khả thi.”
Ông làm việc như một cái máy trong vài phút, rồi bỗng thở mạnh và quay sang Leeland.
- Rembert, cậu có thể làm việc một mình một lát được không ? Breczinsky là người duy nhất có thể giúp tớ tìm xem mã số S.C.V. mà cha Andrei để lại trong sổ tay của ông ấy ứng với cái gì. Tớ sẽ đi hỏi ông ấy.
Một bóng đen lướt qua khuôn mặt tu sĩ người Mỹ, ông thầm thì :
- Tớ xin cậu, hãy nhớ lại điều tớ đã nói với cậu: ở đây, cậu đừng tin tưởng bất cứ ai.
Cha Nil không nói gì: “Tớ biết những điều mà cậu không biết.” Ông tháo găng và gõ vào cánh cửa văn phòng của viên thủ thư.
Breczinsky ngồi bất động trước màn hình vi tính đã tắt, hai tay đặt nằm trên bàn.
- Cha ạ, hôm trước cha đã nói là cha sẵn sàng giúp tôi. Tôi có thể nhờ cha một việc không ?
Tu sĩ người Ba Lan nhìn ông không nói gì, nét mặt hoảng hốt. Rồi ông cúi xuống nhìn vào đôi bàn tay, và nói bằng giọng trầm đục, như nói với chính mình, như thể cha Nil không có ở đó :
- Cha tôi bị giết chết vào cuối năm 1940, tôi không biết mặt ông. Mẹ tôi kể lại: một buổi sáng, một sĩ quan cao cấp thuộc quân đội Wehrmacht đã đến tìm tất cả đàn ông trong làng, nói là để làm một công việc trong rừng. Cha tôi không bao giờ quay trở lại, còn mẹ tôi chết khi tôi sáu tuổi. Một người anh họ ở Cracovie đã đón tôi về nhà, tôi là một đứa trẻ bơ vơ sau chiến tranh và tôi không thể nói được nữa. Cha xứ trẻ của xứ đạo bên cạnh đã thương xót đứa trẻ câm: ông đón tôi về ở cùng ông, giúp tôi lấy lại niềm vui sống. Rồi một ngày, ông ấy làm dấu thánh lên trán, lên môi và lên tim tôi. Ngày hôm sau, lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi đã nói. Sau đó ông ấy cho tôi vào trường dòng trong địa phận Cracovie nơi ông làm Giám mục. Tôi nợ ông mọi thứ, ông là cha của tâm hồn tôi.