"U... hu... hu... Cái mẹ gì thế này?"
Đoạn này tôi nhớ rõ lắm. Hắn nheo mắt gật gật cái đầu, vết sẹo chưa liền da trên mặt phập phồng, phập phồng, vẫn cười sằng sặc. Thoạt tiên tôi nghĩ hắn cười chỉ vì bộ dạng thảm hại hoặc dáng dấp da đỏ từ đầu đến chân của tôi, mái tóc da đỏ màu đen nhờ mỡ. Nhưng rồi tôi hoảng sợ - biết đâu hắn cười vì đã nhìn thấu hết ruột gan tôi, cho dù tôi có ranh ma mức nào, hắn cũng thấy hết và đang vừa cười vừa nháy mắt cho tôi hiểu.
"Thế nào, Đại thủ lĩnh? Trông chú mày giống hệt Bò Ngồi trong cuộc bãi công ngồi." Hắn ngoái lại nhìn bọn Cấp tính; một câu đùa thật dạt, xong chẳng đứa nào dám cười to, chỉ khẽ nhúc nhích; thế nên quay lại tôi hắn hỏi: "Thủ lĩnh tên chi?"
Từ cuối phòng Billy Bibbit nói vọng tới: "Nó t... te... tên là Bromden - Thủ lĩnh Bromden. Nhưn người ta gọi nó là Thủ lĩnh Bờ... bàn chải, vì tụi hộ lý cứ bắt nó q... qu... quét dọn. Mà nó cũng chẳng làm được gì khác. Điếc," Billy tì cằm lên cánh tay, nuốt nước bọt cái ốc. "Tôi mà điếc," hắn thở hắt ra khó nhọc, "tôi đã ch... chê... chết quách cho rồi."
McMurphy vẫn nhìn tôi chằm chằm: "Nếu vươn mình dậy, nó sẽ cao lắm đây, phải không? Mà nó cao bao nhiêu?"
"Hình như có người đã đ... đo được hai mét một phân. To lớn vậy mà sợ từ con gián sợ đi. Nó chỉ là tên m... mọi da đỏ hộ pháp và điếc lác."
"Trông hắn ngồi đó qua đã nghĩ hắn là người da đỏ.Nhưng Bromden không phải là họ của tụi da đỏ. Hắn thuộc bộ lạc nào vậy?"
"Không biết." Billy nói. "Khi tôi v... vào viện thì đã có nó."
"Bác sĩ cho tôi biết," Harding tiếp lời Billy, "nó lai da đỏ, vốn sinh sống đâu đó quanh vốc sông Columbia. Bộ lạc của nó đã bị tuyệt chủng. Bác sĩ bảo bố nó đã từng là Thủ lĩnh của bộ lạc. Tên lóng 'Thủ lĩnh' của nó từ đó mà ra. Còn tại sao nó mang họ là Bromden thì kiến thức dân tộc học về người da đỏ của tôi không đủ để giải thích."
McMurphy ghé sát mặt vào tôi. Chả còn cách nào khác là phải nhìn vào mặt hắn. "Đúng mày điếc chứ, Thủ lĩnh?"
"Nó vừa ca... ca... vâm vừa đ... đi... điếc."
McMurphy bĩu môi nhìn tôi rất lâu, sau đó rút tay ra khỏi túi quần và chìa cho tôi. "Điếc hay câm thì cũng phải biết bắt tay chớ? Mẹ kiếp! Thủ lnxh à, mày cao lêu nghêu thật đấy, nhưng khi qua chìa tay ra thì mày phải bắt. Bằng không qua coi đây là một điều sỉ nhục. Mày dám cả gan làm nhục tân toán trưởng toán tâm thần toàn nhà thưowng này sao?"
Nói đoạn hắn nhìn sang Harding và Billy nhấm nháy nhưng tay vẫn chìa cho tôi, một bàn tay to như cái đĩa.
Tôi vẫn còn nhớ bàn tay hắn ra sao. Bàn tay đã từng làm việc trong các gara, móng tay cáu bẩn; dưới các khớp ngón xăm một cái mỏ neo, khớp ngón giữa còn dính một mảnh băng bẩn thỉu, hai đầu quăn queo, các ngón khác đầy sẹo, cũ có, mới có. Lòng bàn tay phẳng, chắc chắn, cứng cáp như một tấm gỗ, đã rắn lại vì cầm búa, cầm rìu. Chẳng ai nghĩ đấy là bàn tay của một con bạc. Bàn tay đầy vết chai, vết chai đầy kẽ nứt, trong các kẽ nứt đất dính vào. Một tấm bản đồ những chuyến hắn tung hoành miền Tây. Bàn tay đó cọ vào bàn tay tôi ram ráp. Tôi nhớ các ngón tay to khỏe siết mạnh bàn tay tôi, và bàn tay tôi bắt đầu sống động, căng lên ở đầu cánh tay cứng đờ, như là hắn đang rót máu mình vào đó. Nó rung lên vì máu và sức lốc, nó phồng lên gần to bằng tay hắn, tôi vẫn nhớ...