Bà quay đi, đám mèo tùy tùng phóng vọt vô bếp trước.
- Sữa hay đường?
- Vâng.
Tiến sĩ Burrows nói, vẫn đứng bên ngoài cửa nhà bếp trong khi bà già lăng xăng quanh bếp, lấy ấm trà trên kệ xuống.
- Tôi xin lỗi là đã đến mà không báo trước như vầy.
Tiến sĩ Burrows nói trong nỗ lực khỏa lấp sự im lặng.
- Bà thiệt là tử tế.
- Ấy chớ, ông mới là người tử tế. Tôi phải cám ơn ông.
- Sao vậy?
Ông phát cà lăm, vẫn còn bấn loạn tìm cách biết được chính xác bà già này là ai.
- Vì lá thư rất lịch sự của ông đấy. Bây giờ tôi đọc không được rõ như xưa nữa, nhưng ông Embers đọc dùm.
Bỗng nhiên đâu đó rõ như ban ngày và Tiến sĩ Burrows thở phào nhẹ nhõm, màn sương mù mờ được làn gió mát hiểu ra thổi tan biến.
- Trái cầu phát sáng! Thưa bà Tantrumi, cái đó chắc chắn là một mẫu vật đáng tò mò.
- A, hay thế cơ?
- Có lẽ ông Embers đã nói với bà là nó cần được kiểm tra.
Bà nói:
- Vâng. Chúng ta không muốn mọi người đều bị radio điều khiển, nhỉ?
- Không ạ.
Tiến sĩ Burrows tán đồng, cố gắng không mỉm cười.
- Chẳng được việc lắm. Bà Tantrumi à, lý do tôi ghé qua là...
Bà già nghiêng đầu sang một bên, hồi hộp chờ ông nói tiếp trong khi tay vẫn khuấy trà. Ông đành nói nốt:
- ... À, tôi mong bà có thể chỉ cho tôi chỗ bà đã tìm ra nó.
- Ấy không, nào phải tôi – chính là những người thợ gas ấy. Bánh bông lan hay kem trứng?
Bà nói, vừa đưa ra một hộp thiếc méo mó đựng bánh.
- Ơ... xin bánh bông lan ạ. Bà nói là mấy người thợ gas tìm ra nó à?
- Chính họ đấy. Ngay bên trong tầng hầm.
- Dưới đó?
Tiến sĩ Burrows hỏi, nhìn về phía cánh cửa mở ở dưới chân của một cái cầu thang ngắn.
- Bà cho phép tôi ngó qua một cái được không?
Ông nhét cái bánh bông lan vô túi áo khoác vì phải đối phó với mấy bậc cầu thang bằng gạch mốc rêu.
Khi đã bước qua ngưỡng cửa ông có thể thấy tầng hầm được chia làm hai phòng. Phòng đầu tiên để trống, chỉ có mấy cái đĩa đựng đồ ăn cực kỳ đen và khô cho mèo, dây thun rơi vãi khắp sàn. Ông bước qua phòng thứ hai, nằm dưới phần trước của căn nhà. Nó gần giống như phòng thứ nhất, ngoại trừ ánh sáng trong phòng này kém hơn và có thêm một số bàn ghế. Khi đảo mắt nhìn quanh ông thấy một cái dương cầm dựng đứng ở một góc, coi bộ sắp rã rời từng mảnh vì ẩm mục, và khuất trong góc tối là một tủ quần áo có mặt gương bể. Ông mở cánh cửa tủ ra và đứng lặng.
Ông hít hửi nhiều lần, nhận ra cùng một mùi ẩm mốc mà ông đã ngửi thấy ở gã đàn ông đụng phải trên đường và ở ống thông gió trong ngôi nhà của Penny Hanson. Khi mắt ông đã quen với bóng tối ông có thể thấy bên trong tủ có nhiều chiếc áo khoác – theo như ông có thể phân biệt thì chúng đều màu đen – và khá nhiều những chiếc mũ kết dẹp và nhiều thứ đội đầu khác nhau chất chồng trong một ngăn tủ ở một bên.