Chỉ như thế mới có thể chuẩn bị đề phòng cho ổn thỏa.
Trước mắt họ không biết được ngay cả kẻ giết người, chỉ có thể đề phòng phần nào, chứ ngoài cách chờ đối phương ra tay tập kích thì không còn cách nào khác.
Nguy cơ rõ ràng đã ngay trước mắt, đối phương có thể ra tay bất cứ lúc mào.
Hiện y không nghĩ tới việc nhìn lại mấy người lương thiện đã bị chết oan.
Đáng tiếc là y khua môi múa mép bao lâu, vẫn không gợi cho Vân Phiêu Phiêu nhớ lại được gì cả, suốt nửa ngày Vân Phiêu Phiêu cũng chỉ nhớ ra vài chuyện lặt vặt.
Thẩm Thăng Y vốn không chịu thôi, nhưng trước tình trạng như thế lại càng không thể thôi được.
Lúc ấy Vân Phiêu Phiêu đang đứng trước một cuốn trục treo trên vách.
Trên cuốn trục chép một bài thơ của Lý Thương Ẩn.
“Khó nỗi tương phùng khó biệt ly, Gió xuân yếu ớt khóm hoa thưa. Con tằm đến chết tơ cam dứt, Ngọn nến thành tro lệ chẳng khô. Soi kính sáng buồn màu tóc đổi, Ngâm thơ đêm thấy ánh trăng mờ. Bồng lai chốn ấy không xa lắm, Cậy cánh chim xanh khéo hẹn hò”.
Vân Phiêu Phiêu đọc kỹ một lượt, quay lại nói “Trước kia ta đã đọc qua bài thơ này”.
Thẩm Thăng Y cười gượng.
Câu này y đã nghe nhiều lần, trong thư trai treo đầy những cuốn trục chép thơ, toàn là thơ của người xưa, Vân Phiêu Phiêu nhìn tới đều nói là đã đọc qua.
Vân Phiêu Phiêu nói tiếp “Lý Thương Ẩn là thi nhân thời Đường”.
Thẩm Thăng Y nói “Đúng thế”.
Vân Phiêu Phiêu nói “Nói cho ta biết thêm chút gì về y đi”.
Thẩm Thăng Y nói “Ta chỉ biết rằng y tự là Nghĩa Sơn, người Hà Nội, có hiệu là Ngọc Khê tiên sinh”.
Vân Phiêu Phiêu lại nhìn lên cuốn trục “Bài thơ này thê thiết quá”.
Thẩm Thăng Y chỉ hững hờ “Ờ” một tiếng.
Vân Phiêu Phiêu nói “Ta vẫn chẳng hiểu gì cả”.
Thẩm Thăng Y từ từ đứng dậy nói “Gặp nhau vốn đã khó, nhưng lúc chia tay buồn bã nhìn nhau, tình cảnh như thế có phải là không chịu nổi không nào?
Vân Phiêu Phiêu bất giác gật đầu.
Thẩm Thăng Y nói tiếp “Trăm hoa rơi rụng, gió xuân yếu ớt, là tả cảnh sắc thê lương lúc cuối xuân, lúc chia tay thề ước là đến chết không quên nhau, cũng như con tằm ngọn nến, biến vật vô tình thành có tình, hay là ở chỗ so sánh ấy”.
Vân Phiêu Phiêu hỏi “Còn hai câu kế nữa là ý gì?”.
Thẩm Thăng Y nói “Đó là nhớ nhung người cũ, ở trong tâm trạng buồn bã vô cùng, sáng sớm soi gương thì thấy màu tóc mây nhuốm bạc, đêm trăng đọc thơ thì nghĩ tới cảnh vắng vẻ lạnh lùng, câu nào cũng thấy dáng hình tiều tụy, sau cùng thì nói việc tiên phàm cách trở nhưng vẫn mong mỏi tin nhau, trong lúc tuyệt vọng vẫn còn mong mỏi, càng thấy tình cảm sâu nặng”.
Vân Phiêu Phiêu than thở hồi lâu.
Thẩm Thăng Y từ từ bước tới cạnh nàng nói “Đây là bài thơ cuối cùng trong thư trai này mà cô chưa hỏi ta”.
Vân Phiêu Phiêu cười gượng nói “Vậy thì đến lần sau ngươi tới đây chúng ta cũng chẳng còn chuyện gì để nói nữa rồi”.